Tầm quan trọng và lợi ích của việc làm sàng lọc mất thính lực cho trẻ sơ sinh ?

0
15400

Theo nghiên cứu cứ khoảng trung bình 1000 trẻ khi sinh ra thì có 2-3 trẻ có khả năng nghe kém. Việc thính lực không tốt có thể gây ảnh hưởng tới khả năng nghe và nói của con. Chính vì thể mà nhiều các chuyên gia khoa học trên thế giới khuyến nghị rằng việc xác định thính lực của trẻ cần được xác định và điều trị trước khi trẻ được 6 tháng tuổi.

Nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời các bé sẽ có khả năng phát triển các kỹ năm gần tương đương với những trẻ bình thường. Đối với những bé được phát hiện quá muộn (như 2-3 tuổi trở lên) các bé sẽ có thể phải gánh chịu khuyết tật vĩnh viễn và không thể sửa chữa được những khả năng như phát triển ngôn ngữ, nhận thức, phát âm như các bé bình thường khác.

Chính điều trên đã cho thấy việc làm sàng lọc mất thính lực cho trẻ sơ sinh được sau khi đẻ là điều vô cùng quan trọng và bố mẹ nên yêu cầu làm cho bé. Hiện nay thường sau khi sinh các bé sẽ được bệnh viện yêu cầu có làng sàng lọc hay không. Các bác sĩ ở bệnh viện sẽ làm các kiểm tra nếu bé vượt qua thử nghiệm ngay lần đầu thì khả năng thính lực của bé là bình thường. Còn nếu các bé không vượt qua lần đầu, sẽ được làm thử nghiệm lại và có thể được khuyến cáo chuyển tới bác sĩ chuyên khoa thính lực cho các thăm dò sâu tiếp theo.

sang-loc-thinh-luc2

I. Các yếu tố nguy cơ gây mất thính lực ở trẻ

– Gần như tất cả các trường hợp thính lực vĩnh viễn là do sự phá hủy hoặc mất chức năng của thần kinh thính giác dẫn truyền tín hiệu âm thanh từ tai trong tới não. Tuy nhiên, thì chỉ khoảng 1 nửa các trường hợp mất thính lực là có thể xác định được nguyên nhân. Trong số các nguyên nhân xác định được, thì khoảng một nửa là do các bé bị mắc phải ngay trong quá trình mang thai và sinh đẻ và khoảng một nửa còn lại là do các nguyên nhân có yếu tố di truyền.

Một số trẻ có nguy cơ mất thính lực cao hơn bao gồm:

  • Các bé sinh ra từ mẹ bị mắc một số bệnh khi mang thai như: nhiễm cytomegalovirus, rubella (sởi Đức), giang mai, herpes, toxoplasmosis (bệnh mèo cào)…
  • Tiền sử trong gia đình đã có người bị mất thính lực.
  • Các bà mẹ sử dụng các thuốc như: kháng sinh mạnh điều trị nhiễm khuẩn thuộc nhoma aminoglycosides (gentamycin, kanamycin), hóa liệu pháp chống ung thư, hoặc tiếp xúc với hóa chất độc hại có thể gây ảnh hưởng đến thính lực.
  • Những bé đẻ non, sinh nhẹ cân hay có những dấu hiệu bị suy hô hấp sau đẻ và phải thông khí hỗ trợ kéo dài
  • Những trẻ bị bị vàng da do tăng bilirubin, viêm màng não.
  • Những trẻ có chỉ số Apgar sau đẻ thấp
  • Trẻ có bất thường cấu trúc ở đầu, mặt, cấu trúc bất thường của tai ngoài và tai giữa.

Ngoài các trường hợp trên ngay cả những bé không có các yếu tố trên thì vẫn có khả băng bị mất thính lực chính vì vậy làm chương trình làm sàng lọc nên áp dụng cho mọi trẻ sơ sinh trước khi bé xuất viện trở về nhà.

II. Hai phương pháp sàng lọc mất thính lực ở trẻ sơ sinh

Trên thế giới hiện nay đang áp dụng 2 phương pháp sàng chính để sàng lọc thính lực là:

– Đo lường âm thanh từ ốc tai (otoacoustic emission – OAE)
– Đánh giá đáp ứng âm của cuống não (auditory brainstem response – ABR).

Ưu điểm chính của các hai phương pháp này là có độ chính xác cao, không xâm nhập hay làm trẻ đau đơn, tất cả đều tự động và không yêu cầu sự quan sát chủ quan nào với đáp ứng của trẻ.

1. Phương pháp Do lường âm thanh từ ốc tai (OAE)

sang-loc-thinh-luc

Phương pháp OAE đo lường đáp ứng tại ốc tai khi có kích thích bởi âm thanh. Thường thử nghiệm này kéo dài khoảng 5- 8 phút và được thực hiện như sau:

– Người thực hiện sẽ đặt 1 đầu dò chứa đựng 1 microphone và 1 loa rất nhỏ vào tai trong của trẻ. Khi trẻ sơ sinh nằm yên lặng, âm thanh rất mềm mại sẽ được phát ra từ đầu dò.
– Khi ốc tai nhận được âm thanh, tín hiệu sẽ phát đi tới não. Thêm vào đó, có 1 âm thanh riêng biệt khác phát ra từ ốc tai quay trở lại ống tai. Chính âm thanh này được gọi là âm thanh kiểu tiếng vọng “thoát ra” từ ốc tai.
– Âm thanh “thoát ra” này được ghi lại qua microphone và trở thành hình ảnh trên màn hình. Người đo có thể xác định được âm thanh nào tạo ra được đáp ứng “thoát ra” và độ lớn của đáp ứng.
– Nếu có sự xuất hiện đáp ứng “thoát ra” cho những âm thanh quan trọng nhất cho sự phát triển khả năng nghe nói sau này ở mức độ cho phép, đứa trẻ được đánh giá là đã vượt qua thử nghiệm.

2. Đánh giá đáp ứng âm thanh của cuống não (ABR)

sang-loc-thinh-luc3

Phương pháp ABR là một đo lường vật lý, đo lường các xung điện từ tai tới não khi đáp ứng với âm thanh. Phương pháp sàng lọc này đo độ gắn bó của toàn bộ hệ thống nghe từ tai đến não.

– Người thực hiện sẽ đặt 4-5 điện cực trên đầu trẻ, sau đó trẻ sẽ được nghe nhiều loại âm thanh khác nhau qua 1 tai nghe nhỏ. Các kích thích âm thanh được truyền tới não và các điện cực sẽ ghi lại thành các sóng trên màn hình.
– Người thực hiện có thể điều chỉnh độ to nhỏ khác nhau của nhiều âm thanh và xác định mức độ nhẹ nhất mà trẻ sơ sinh có thể nghe được.
– Nếu chỉ với mục đích sàng lọc, người thực hiện có thể chỉ dùng 1 âm thanh tương tự như tiếng click nhỏ, và nếu có các dấu hiệu đáp ứng, đứa trẻ được đánh giá là đã vượt qua thử nghiệm.
– Thường tử nghiệm thường kéo dài khoảng 5-10 phút.

Sự khác nhau của 2 phương pháp

– Phương pháp đo lường lường theo OAE thường đơn giản hơn, ít tốn kém hơn tuy nhiên tỷ lệ dương tính giả (thính lực bình thường nhưng lại không vượt qua được thử nghiệm) của phương pháp này cao hơn so với tỷ lệ dương tính giả của ABR khi được thực hiện trong vòng 3 ngày đầu sau đẻ.

– Sự khác biệt này là do phương pháp OAE nhạy cảm hơn với dịch ối hay chất gây đọng lại trong tai rất thường thấy ở trẻ. Nhiều chương trình sàng lọc sử dụng OAE, sau đó là ABR trên những trẻ không vượt qua được thử nghiệm OAE.

Hai phương pháp thử nghiệm này là khác nhau về mặt cơ chế, và vì thế có thể sử dụng phối hợp cả hai phương pháp để có đánh giá tốt hơn về thính lực của trẻ.

III. Nếu trẻ không vượt qua được thử nghiệm có nghĩa là gì ?

– Không hẳn tất cả những trẻ sơ sinh không vượt qua thử nghiệm thính lực có nghĩa là mất thính lực. Thống kê cho thấy khoảng 2-10% trẻ sơ sinh tại Mỹ không vượt qua thử nghiệm thính lực lần đầu. Có nhiều lý do cần phải xem xét. Trước tiên, có thể là có nhiều dịch ối trong ống tai, và dịch ối này cản trở các kích thích âm thanh tới được tai trong. Tương tự như vậy, dịch ối đọng trong khoang tai giữa, sau màng nhĩ, cũng gây cản trở các kích thích âm thanh dẫn đến kết quả dương tính giả. Vì thể, nếu một trẻ không vượt qua thử nghiệm, cần phải chờ ít nhất 1 tuần mới thử nghiệm lại để tai trẻ khô lại. Một lý do khác nữa có thể là do tiếng động bên ngoài quá mạnh, trẻ khóc hay trẻ cử động trong quá trình thử nghiệm. Vì thế, đứa trẻ cần yên lặng hay ngủ trong quá trình thử nghiệm. Cho trẻ bú trước khi làm thử nghiệm thường sẽ làm trẻ ngủ dễ dàng hơn.

– Nếu có những bằng chứng rõ ràng về việc mất thính lực thông qua các thử nghiệm này, trẻ cần phải được chuyển đến các chuyên gia thính học để có chẩn đoán tổng thể về dạng và mức độ mất thính lực. Các chuyên gia sẽ tiến hành các đo lường cụ thể và chính xác hơn để xác định liệu tổn thương là vĩnh viễn hay có thể chữa được. Thường là kỹ thuật ABR với nhiều kích thích âm thanh khác nhau hơn sẽ được áp dụng.

– Tóm lại, khi một trẻ sơ sinh không vượt qua được thử nghiệm lần đầu tại bệnh viện sau khi sinh, các bác sĩ có thể giới thiệu tới trung tâm tai mũi họng để tiến hành lại thử nghiệm sau 1 tuần. Nếu trẻ tiếp tục không vượt qua thử nghiệm lần 2 thì các thử nghiệm chẩn đoán cấp độ cao sẽ được tiến hành. Nếu đứa trẻ được chẩn đoán là giảm hoặc mất thính lực, chuyên gia thính học sẽ cho biết loại và mức độ của bệnh. Ví dụ như mất thích lực do các nguyên nhân thực thể như viêm tai giữa, đọng dịch, thủng màng nhĩ hay bất thường cấu trúc tai, có thể chữa được bằng thuốc hay phẫu thuật. Mất thính lực do lý do thần kinh thì phức tạp hơn, đòi hỏi các thiết bị trợ thính hay cấy ghép ốc tai.

Việc trẻ bị mất thính lực sẽ có gặp rất nhiều khó khăn không chỉ trong giai tiếp, lời nói, ngôn ngữ mà còn gia tăng các rối loạn hành vi và gặp nhiều khó khăn trong cả việc giáo dục. Chính vì thế mà bố mẹ nên phát hiện và điều trị sớm cho bé một cách kịp thời nhất đảm bảo cho con được phát triển như những đứa trẻ bình thường.

(Tổng hợp)